Thứ Bảy

Nguồn điện máy tính: Quan trọng hơn bạn nghĩ


Khi xây dựng hệ thống máy tính mới, người dùng thường
không mấy khi chú ý tới một thành phần rất quan trọng – bộ nguồn.
Thường người ta chi khá bộn cho các thành phần chính của máy tính như
CPU, RAM, bo mạch chủ… Việc chi 150 USD cho card đồ họa thế hệ mới có vẻ
hợp lý hơn đầu tư khoản tiền đó cho bộ nguồn (BN) hay Power Supply Unit
(PSU). Tuy nhiên, những thử nghiệm cho thấy BN đóng vai trò quan trọng
đối với hiệu quả hoạt động của hệ thống. Chip lõi kép, đồ họa kép cùng
với những “món đồ chơi” ngốn điện khủng khiếp khác đang ngày càng dồn
“áp lực” lên BN. Bài viết này giới thiệu các khái niệm cơ bản, những
thông số quan trọng, cách thức để nhận biết một BN tốt và phù hợp với
máy tính của bạn.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
Tất cả các loại BN khi xuất xưởng đều phải có tem chứng nhận chất lượng với đầy đủ thông số như điện thế, công suất…
1. Công suất
Công suất nguồn điện, giá trị được tính như sau:
Watt (W) = Voltage (V) x Ampere (A); với V là hiệu điện thế Và A là cường độ dòng điện.
2. Các đường điện
Bộ nguồn thường có nhiều đường điện khác nhau, gồm: +3,3V, +5V, +12V, -5V, -12V. Ý nghĩa của chúng như sau:
-12V:
Được sử dụng chính cho các mạch điện cổng Serial và hầu như rất ít được
dùng trên các hệ thống mới. Mặc dù các BN mới đều có tính tương thích
ngược nhưng công suất các đường -12V chỉ chưa tới 1A.
-5V: Chủ yếu sử dụng cho các bộ điều khiển ổ đĩa mềm và mạch cấp điện cho các khe cắm ISA cũ. Công suất đường -5V cũng chỉ dưới 1A.
0V: Đây là đường “mát” (Ground) của các hệ thống máy tính cá nhân.
+3,3V:
Là một trong những mức điện thế mới trên các bộ nguồn hiện đại, xuất
hiện lần đầu tiên khi chuẩn ATX ra đời và ban đầu được sử dụng chủ yếu
cho bộ vi xử lý. Hiện nay, các bo mạch chủ (BMC) mới đều nắn dòng +3,3V
để nuôi bộ nhớ chính.
+5V: Nhiệm vụ
chính là cấp điện cho BMC và những thành phần ngoại vi. Ngoài ra, các
loại bộ vi xử lý như Pentium III hay AthlonXP cũng lấy điện từ đường 5V
thông qua các bước nắn dòng. Trên những hệ thống mới, đa số các thành
phần linh kiện đều dần chuyển qua sử dụng đường 3,3V ngoại trừ CPU và
BMC.
+12V: Trong các hệ thống máy tính
hiện đại, đây là đường điện đóng vai trò quan trọng nhất, ban đầu nó
được sử dụng để cấp nguồn cho mô tơ của đĩa cứng cũng như quạt nguồn và
một số thiết bị làm mát khác. Về sau, thiết kế mới cho phép các khe cắm
hệ thống, card mở rộng và thậm chí là cả CPU cũng “ăn theo” dòng +12V.
Khi
công tắc nguồn được nhấn lần đầu tiên và BN khởi động, nó sẽ mất một
khoảng thời gian để các thành phần trong nguồn xuất ra điện năng cho các
thành phần máy tính hoạt động. Trước khi đó, nếu máy tính khởi động,
các linh kiện sẽ dễ bị hỏng hóc hoặc hoạt động không bình thường do
đường điện chưa ổn định. Chính vì vậy trên các hệ thống mới, đôi khi
phải mất tới 1-2 giây sau khi bạn nhấn nút công tắc máy thì hệ thống mới
bắt đầu làm việc. Điều này là do hệ thống phải chờ tín hiệu đèn xanh
cho biết điện thế đã sẵn sàng từ BN gửi tới BMC. Nếu không có tín hiệu
này, BMC sẽ không cho phép máy tính hoạt động.
Trong
số các đường điện chính, những đường có giá trị dương (+) đóng vai trò
quan trọng hơn và bạn phải luôn để mắt tới chúng. Mỗi đường sẽ có chỉ số
Ampere (A) riêng và con số này càng cao càng tốt. Công suất tổng được
tính bằng công thức W= VxA. Ví dụ đối với BN có đường 3,3V là 30A, 5V là
30A và 12V là 25A thì các đường điện và công suất được tính như sau:
+ Công suất đường điện 3.3V = 3.3V x 30A = 100W
+ Công suất đường điện 5V = 5V x 30A = 150W
+ Công suất đường điện 12V = 12V x 25A = 300W
Như
vậy tổng công suất nguồn sẽ là 100W + 150W + 300W = 550W. Tuy nhiên
trên thực tế còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới con số tổng này và
chúng ta sẽ đề cập tới ở phần sau bài viết. Do muc may in Hp

3. Chuẩn của bộ nguồn
Chuẩn
thống trị hiện nay trên máy tính để bàn nói chung chính là ATX
(Advanced Technology Extended) 12V, được thiết kế bởi Intel vào năm 1995
và đã nhanh chóng thay thế chuẩn AT cũ bởi nhiều ưu điểm vượt trội. Nếu
như với nguồn AT, việc kích hoạt chế độ bật được thực hiện qua công tắc
có bốn điểm tiếp xúc điện thì với bộ nguồn ATX bạn có thể bật tắt bằng
phần mềm hay chỉ cần nối mạch hai chân cắm kích nguồn (dây xanh lá cây
và một trong các dây Ground đen). Các nguồn ATX chuẩn luôn có công tắc
tổng để có thể ngắt hoàn toàn dòng điện ra khỏi máy tính. ATX có 5 nhánh
thiết kế chính:
ATX: jack chính 20 chân (thường dùng cho Pentium III hoặc Athlon XP).
WTX: jack chính 24 chân, dùng cho Pentium II, III Xeon và Athlon MP.
ATX 12V: jack chính 20 chân, jack phụ 4 chân 12v (Pentium 4 hoặc Athlon 64).
EPS12V: jack chính 24 chân, jack phụ 8 chân dùng cho các hệ thống Xeon hoặc Opteron.
ATX12V 2.0: jack chính 24 chân, jack phụ 4 chân (Pentium 4 775 và các hệ thống Athlon 64 PCI-Express)
Gần
đây xuất hiện một chuẩn mới với tên gọi BTX (Balanced Technology
Extended) có cách sắp xếp các thành phần bên trong máy hoàn toàn khác
với ATX hiện nay, cho phép các nhà phát triển hệ thống có thêm tùy chọn
nhằm giải quyết vấn đề nhiệt lượng, độ ồn… Chuẩn BTX được thiết kế tối
ưu cho những công nghệ mới hiện nay như SATA, USB 2.0 và PCI Express.
Yếu tố xử lý nhiệt độ trong máy tính BTX được cải tiến rất nhiều: hầu
hết các thành phần tỏa nhiệt chính đều được đặt trong luồng gió chính
nên sẽ tránh việc phải bổ sung các quạt riêng cho chúng (sẽ gây tốn thêm
năng lượng, tăng độ ồn và chật chội không cần thiết). Hiện tại bạn có
thể tìm thấy một vài bộ nguồn với tem chứng nhận hỗ trợ BTX nhưng không
nhiều vì chưa thông dụng. Đổ mực máy in giá rẻ

4. Các loại chân cắm
Dây
cắm của nguồn điện máy tính được đánh mã màu rất chi tiết, màu đỏ là
điện +5v, màu vàng là +12v, màu đen là dây “mát” (Ground)… Chúng được
tập hợp lại thành những dạng chân cắm cơ bản sau đây:
Molex:
Sử dụng cho các loại đĩa cứng và ổ đĩa quang, ngoài ra bạn cũng có thể
sử dụng để cắm quạt và một số thiết bị khác như card đồ họa AGP (Geforce
5, 6 hoặc Radeon X800) hay BMC như của Asus hay DFI.
Đầu cắm nguồn chính:
Nguyên bản ATX ban đầu có 20 chân cắm, chuẩn mới 2.0 đã nâng số chân
cắm chính lên 24 chân. Bạn cũng có thể tìm thấy một số BN có dạng chân
20+4 với chốt gắn cho phép sử dụng cả trên các BMC với đầu điện nguồn
dạng 20 hay 24 chân.
Dây điện phụ 12V: Xuất hiện cùng với hệ thống Pentium 4. Dây này gồm 4 đầu cắm với 2 chân 12V và 2 chân “mát”.
Đầu cắm SATA:
Những BN mới nhất đều phải có tối thiểu từ 2 tới 4 chân cắm dẹt dành
cho những đĩa cứng SATA hiện đại. Tuy nhiên bạn cũng có thể sử dụng các
đoạn dây chuyển nếu như nguồn của mình không có loại chân này.
Đầu PCI-Express:
Cũng tương tự như với chân cắm SATA, đầu cắm PCI-Express là thứ không
thể thiếu trong các BN thế hệ mới. Những nguồn điện với chứng nhận SLI
hoặc Crossfire cho các hệ thống đồ họa kép luôn có tới 2 đầu cắm dạng
này để sử dụng với card đồ họa PCI-Express. Tất nhiên, nếu nguồn của bạn
không có đầu cắm mà vẫn muốn sử dụng card đồ họa mới, bạn vẫn có thể sử
dụng các jack chuyển đối (đôi khi được tặng kèm theo card).
Đầu cắm ổ đĩa mềm:
Nguyên thủy, giắc cắm này được sử dụng cho ổ đĩa mềm, nó cũng gồm 2 dây
ground, 1 dây +5V và 1 dây +12V. Về sau, có khá nhiều thiết bị khác
cũng sử dụng kiểu đầu cắm này như các card đồ họa, đầu chuyển đổi ATA –
SATA của đĩa cứng và thậm chí là cả BMC như DFI Lanparty NF4.
Đầu cắm EPS 12V 8 chân:
Thường được sử dụng cho các BMC workstation trên những hệ thống máy
tính chuyên nghiệp với CPU Opteron hay Xeon. Gần đây, một số BMC desktop
mới cũng bắt đầu sử dụng đầu cắm này ví dụ như dòng P5WD2 của Asus.
Hiện
nay, thiết kế tháo rời (Modular Concept) của bộ nguồn máy tính đang bắt
đầu được sử dụng. Bạn hãy thử hình dung một bộ nguồn chuẩn ATX 2.01 sẽ
có khoảng 8-10 đầu cắm Molex, 1 đầu cắm chính, một hoặc hai đầu cắm
PCI-Express, 1 đầu 12V, 2 tới 4 đầu SATA và một số các đầu giao tiếp
riêng đặc biệt khác. Tuy nhiên hệ thống máy tính của bạn nếu chỉ ở mức
cơ bản và sử dụng chưa tới ½ số đầu cắm này thì chắc chắn việc sắp xếp
gọn gàng những đầu cắm dư bên trong máy sẽ khá rắc rối. Modular Concept
cho phép bạn chỉ cắm những dây với các đầu nối cần dùng và loại bỏ những
chân không cần thiết. Nhờ vậy nội thất bên trong case của bạn sẽ gọn
gàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các giải pháp làm mát nói chung. Tuy
nhiên kiểu thiết kế mới này hiện tại mới chỉ được áp dụng trên những BN
cao cấp đắt tiền. Đổ mực máy in Canon tại nhà
5. Các đường điện âm
Nếu
sử dụng một số phần mềm đo điện hay thậm chí là đồng hồ đo, bạn sẽ thấy
các giá trị của đường điện âm (-) khá thấp so với các đường dương (+).
Điều này là do hiện nay chúng không còn quan trọng nữa. Mặc dù một bộ
nguồn ATX 20 chân có chân số 12 là -12v và chân số 18 là -5v nhưng hầu
như không bao giờ được dùng. Một số thiết bị cần tới điện thế âm bao
gồm:
+ Các card mở rộng ISA.
+ Cổng serial hoặc LAN
+ Ổ đĩa mềm thế hệ cũ.
6. Thời gian duy trì điện (Hold-up time)
Giá
trị Holdup Time xác định khoảng thời gian tính bằng mili-giây mà một bộ
nguồn có thể duy trì được các đường điện ra ở đúng định mức khi đường
điện vào bị ngắt (ví dụ như mất điện). Điều này rất có ích đặc biệt khi
bạn sống trong khu vực điện không ổn định (ví dụ trường hợp điện đột
ngột chớp ngắt rồi có lại thì máy tính vẫn có thể hoạt động bình
thường). Giá trị Hold-up time của chuẩn ATX là 17ms và bộ nguồn máy tính
nên có chỉ số này càng cao càng tốt. do muc may in tai nha

7. Power Factor Correction (PFC)
PFC
cho phép việc cung cấp điện đạt hiệu quả sử dụng cao. Có hai loại PFC
chính là Active PFC và Passive PFC. Tất cả các bộ nguồn được sản xuất
vào hiện tại đều thuộc một trong hai loại này.
Active PFC:
Đây là kiểu hiệu quả nhất. Nó sử dụng mạch điện tự động điều chỉnh để
hiệu suất sử dụng điện có thể đạt tới 95% (theo lý thuyết). Ngoài ra,
Active PFC cũng có khả năng khử nhiễu và căn chỉnh đường điện vào (cho
phép bạn cắm vào bất kì ổ cắm 110V cho tới 220V thông dụng nào mà không
cần phải quan tâm tới các chỉ số). Tuy nhiên do kiến trúc phức tạp của
Active PFC nên những bộ nguồn dùng công nghệ này đều có giá khá cao. Một
số bộ nguồn Active PFC vẫn cho phép người dùng sử dụng công tắc chuyển
xác định dòng điện đầu vào.
Passive PFC: Đây là kiểu
thông dụng nhất hiện nay. Khác với Active PFC, Passive PFC căn chỉnh
dòng điện thông qua các tụ lọc và chính vì thế khả năng làm việc của nó
sẽ bị thay đổi theo thời gian cũng như chịu ảnh hưởng khá lớn từ các yếu
tố bên ngoài như nhiệt độ, chấn động… Những bộ nguồn dùng công nghệ
Passive PFC đều yêu cầu người dùng phải chỉnh lại điện thế đầu vào thông
qua một công tắc nhỏ. Nguồn Passive PFC có giá rẻ hơn nguồn Active PFC.
Các
loại nguồn không sử dụng PFC (Non PFC) hiện nay đều được khuyến cáo
không nên dùng. Ở một số quốc gia EU, mọi bộ nguồn đưa ra thị trường đều
được yêu cầu phải có trang bị hoặc Active PFC hoặc Passive PFC. PFC cho
phép tiết kiệm điện sử dụng, giảm sức tải cho các đường dây điện trong
nhà: điều này rất có lợi khi bạn thành lập phòng máy hoặc sử dụng nhiều
máy cùng một nguồn điện. Bộ nguồn dạng Active PFC thường cho đường điện
ra ổn định hơn so với Passive PFC, nhờ vậy thiết bị trong máy hoạt động
ổn định và có tuổi thọ cao hơn.
8. Năng lượng cực đại và năng lượng liên tục
Mức
năng lượng liên tục (Continuous Power) là chỉ khả năng cấp điện của
nguồn trong khoảng thời gian dài liên tục còn năng lượng cực đại (Peak
Power) lại chỉ mức tối đa trong khoảng thời gian ngắn. Ví dụ bạn cắm một
loạt thiết bị với tổng công suất khoảng 430W vào bộ nguồn có chỉ số
Continuous Power là 400W, chúng vẫn có thể hoạt động được trong khoảng
thời gian ngắn nếu mức Peak Power của nguồn đạt trên 430W nhưng sau một
khoảng thời gian nhất định, các linh kiện trong nguồn sẽ bị trục trặc.
9. Độ ồn
Chỉ
số xác định độ ồn của một bộ nguồn được đo bằng đơn bị dB và nó phải
phù hợp với độ ồn của môi trường làm việc. Lấy ví dụ, trong văn phòng ồn
ào, bộ nguồn 30dB có thể không phải là vấn đề nhưng nếu trong phòng
khách gia đình yên tĩnh, con số này sẽ gây khó chịu, đặc biệt là về đêm.
Một quy tắc bất thành văn là bộ nguồn với quạt 120mm sẽ làm việc êm hơn
so với bộ nguồn có quạt 80mm hay 90mm tốc độ cao mặc dù hiệu năng làm
mát của chúng có thể tương đương nhau. Khi bộ nguồn làm việc nặng nhọc
hơn (nuôi nhiều thiết bị) thì nhiệt lượng do nó tỏa ra cũng tăng cao và
đối với những bộ nguồn có quạt tự điều chỉnh tốc độ, số vòng quay của
quạt cũng tăng lên và khi đó những âm thanh ồn ào bắt đầu xuất hiện. Ví
dụ khi một bộ nguồn làm việc ở mức 70%, tiếng ồn chỉ khoảng 20dB nhưng
khi lên tới con số 90% thì âm lượng phát ra sẽ có thể lên tới 35dB hoặc
hơn. Bạn nên xem xét kĩ vấn đề này: nếu cần nguồn 300W, bạn nên chọn
loại 350W để công suất làm việc vừa đủ 85%, nếu chọn loại 400W thì con
số này chỉ còn 75% và có thể độ ồn cũng giảm theo.
Một số bộ nguồn
loại siêu êm có thể không sử dụng quạt hoặc chỉ dùng những loại quạt
rất êm nhưng hầu hết chúng không dành cho những máy tính bình thường vì
giá cực đắt, điển hình như XG Magnum 500 của MGE.
Nếu hay lượn lờ
trên các website công nghệ, có thể bạn cũng sẽ bắt gặp một số bộ nguồn
với giải pháp làm mát bằng nước nhưng loại này khá nguy hiểm đối với
những người ít kinh nghiệm.
Đường điện
Khoảng chênh lệch
Tối thiểu
Tối đa 1 +5VDC ±5% +4.75V +5.25V 2 +12VDC ±5% +11.40V +12.60V 3 -5VDC ±10% -4.5V -5.5V 4 -12VDC ±10% -10.8V -13.2V 5 +3.3VDC ±5% +3.47V +3.14V 6 +5V SB ±5% +4.75V +5.25V
10. Chiết áp chỉnh điện thế (Adjustable Pot)
Một
số bộ nguồn tốt có kèm theo các chiết áp nhỏ bên trong để chỉnh hiệu
điện thế cho các đường điện. Trong thực tế, nếu đường điện 12V của bạn
tụt xuống dưới 11,5V, nó sẽ gây ra mất ổn định cho toàn hệ thống. Hãy
nhớ rằng chuẩn ATX cho phép điện thế mỗi đường dao động trong khoảng 5%
và bạn có thể chỉnh lại lên 12V thông qua những chiết áp đó. Tuy nhiên
đây là tính năng nâng cao và chỉ nên thực hiện nếu bạn biết mình đang
làm điều gì. Một số sản phẩm nguồn chuyển hẳn các chiết áp này ra ngoài
để người dùng tự thay đổi thoải mái ví dụ như series TrueControl của
Antec.
Giá trị giới hạn an toàn của các đường điện theo chuẩn ATX như sau:
11. Chế độ Soft Power và tín hiệu chờ 5V
Soft
Power là cách thức mà bộ nguồn máy tính được bật lên hoặc tắt đi nhưng
thay vì dùng công tắc cứng như chuẩn AT trước kia thì được kích hoạt khi
BMC ra lệnh cho bộ nguồn. Cũng nhờ vào điều này mà người dùng có thể
điều khiển năng lượng hệ thống qua phần mềm. Bạn có thể dễ dàng kiểm
chứng điều này bằng khả năng tắt máy của hệ điều hành Windows hay bật
máy lên từ bàn phím, chuột. Nguyên tắc chính để BMC ra lệnh cho bộ nguồn
là thông qua tín hiệu chờ của đường +5V Standby. Đường điện này độc lập
hoàn toàn với các đường nuôi thiết bị khác và sẽ có tín hiệu bất cứ khi
nào bạn cắm điện vào nguồn, một số BMC mới thường có đèn tín hiệu để
báo trạng thái +5V Standby. Ngoài ra trên hệ thống máy tính còn có một
vài đường điện phụ khác, gồm:
Dòng cảm ứng +3.3V (+3.3V Sense): Chức năng chính là theo dõi điện thế của đường +3.3V nuôi BMC. Nhờ vậy, bộ nguồn có thể căn chỉnh dòng cho chính xác.
Điều khiển quạt (Fan Control):
Tín hiệu điều khiển quạt cho phép hệ thống nói chung và BMC nói riêng
thay đổi tốc độ quạt của bộ nguồn. Khi điện thế của dòng này tụt xuống
dưới 1V, quạt sẽ tự động tắt. Khi đạt giá trị trên 10.5V, quạt sẽ hoạt
động ở mức tối đa. Chức năng chính của thiết kế này là cho phép hệ thống
tắt quạt khi máy tính chuyển sang trạng thái nghỉ (Sleep Mode) hoặc
thay đổi tốc độ quạt theo nhiệt độ linh kiện.
Theo dõi trạng thái quạt (Fan Monitor):
Đây là bạn đồng hành của tính năng điều kiển quạt, nó cho phép theo dõi
tốc độ quay của quạt trong hệ thống. Nhiệm vụ chính của nó là cảnh báo
người dùng khi có một quạt làm mát nào đó gặp trục trặc và ngừng hoạt
động.
Hình ảnh
Hình ảnh
CÁCH CHỌN BỘ NGUỒN TỐT
Bạn đang dự định lắp một bộ máy tính mới và phân vân chưa biết nên mua bộ nguồn nào? Hãy tham khảo những bước sau đây:
1. Tính toán đường điện 12V của nguồn
Như
bạn đã biết, 3 đường điện chính của một bộ nguồn là +12V, +5V và +3.3V.
Công suất tổng được tính toán dựa trên cường độ mỗi dòng. Tuy nhiên
thực tế đáng buồn là rất nhiều nhà sản xuất bộ nguồn máy tính thường sử
dụng thủ thuật tăng số watt lên bằng cách “đẩy” những đường điện không
quan trọng (+5V và +3.3V). Chính vì thế, bạn hãy bỏ qua con số watt và
tập trung vào cường độ của đường điện 12V để xác định chất lượng một bộ
nguồn. Chỉ số Ampere của đường +12V có thể tìm thấy trong tài liệu đi
kèm hoặc ngay trên tem sản phẩm (ví dụ +12V: 25A). Chú ý rằng những
nguồn ATX12V 2.0 mới có tới 2 đường 12V cho phép chia tải năng lượng
giữa CPU và BMC (+12v1) độc lập khỏi những linh kiện khác (+12v2). Điều
đó cho phép dòng điện ổn định hơn. Một số nguồn thậm chí còn có tới 3
đường 12V khác nhau ví dụ như RealPower 550W của CoolerMaster. Mặc dù
điều này không có ý nghĩa đối với những hệ thống thông thường nhưng khi
sử dụng với những máy tính siêu mạnh cho game hay các ứng dụng chuyên
nghiệp thì sẽ có khác biệt lớn.
2. Đảm bảo tính chính xác
Nếu
bạn vừa mua một bộ nguồn chỉ 10-20USD với tem dán 28A cho đường +12V
thì chắc chắn điều đó không chính xác. Tại thị trường Việt Nam hiện nay
có nhiều bộ nguồn kém chất lượng xuất xứ không rõ ràng, bạn thậm chí có
thể mua được một bộ nguồn công suất cực cao lên tới 600W-700W với giá
chỉ 2/3 so với bộ nguồn 350W hàng hiệu, tuy nhiên đó không phải là công
suất thực. Đó là chưa kể nguồn điện kém chất lượng thường không ổn định
sau một thời gian dài sử dụng và có thể làm hỏng một số linh kiện đắt
tiền của máy tính. Theo kinh nghiệm cá nhân, thường thì BMC sẽ là nạn
nhân đầu tiên.
3. Xem xét vấn đề công suất
Bạn
có thể lấy được những thông số về năng lượng của hầu hết các loại thiết
bị từ tài liệu đi kèm sản phẩm hoặc website của nhà sản xuất để tính
toán định mức gần đúng. Hai bảng tham khảo đối với đường điện +12V ở
trên sẽ phần nào giúp bạn giải quyết vấn đề. Chúng ta có một ví dụ hệ
thống máy tính như sau:
Bạn có thể thấy rằng có nhiều thiết bị sử
dụng 2 hay 3 đường điện cùng một lúc. Ví dụ như card đồ họa đời mới lấy
năng lượng từ cả khe cắm mở rộng AGP/PCI-Express lẫn đầu cắm 12V ngoài.
Với một cấu hình máy tính tương đối mạnh như trên, bạn sẽ cần tới nguồn
điện khoảng 350W. Tuy nhiên với mục đích an toàn, chúng ta nên tính toán
dư ra một chút.
Thực tế, khi xây dựng một hệ thống máy tính, người dùng sẽ có 2 trường hợp:
a. Làm việc cơ bản:
Chỉ
cần tính toán đúng công suất tiêu thụ của các linh kiện, hiếm khi cần
vượt trội hơn nhiều. Chính vì thế các yếu tố chọn bộ nguồn chủ yếu tập
trung vào yêu cầu về độ an toàn, chỉ số tiếng ồn. Thông thường, bạn có
thể tính dư ra khoảng 10%-20% so với con số dự kiến là vừa. Trong trường
hợp trên bạn có thể chọn nguồn 400W là đủ. Tất nhiên chúng ta đề cập
tới công suất thực chứ không phải chỉ là những con số ghi trên tem. Nếu
dự kiến bổ sung thêm các đồ chơi trang trí, quạt hay ổ đĩa, bạn sẽ cần
tới nguồn 450W với đường 12V khoảng 24A.
b. Những người thích “nghịch”:
Trong
trường hợp này, ép xung, đèn đóm, tản nhiệt nước lắp trong… sẽ ngốn
thêm của bạn rất nhiều năng lượng. Những thành phần máy tính chạy ở tốc
độ cao hơn dĩ nhiên sẽ “ngốn” thêm nhiều điện hơn so với mặc định. Thông
thường bạn sẽ cần thêm tới 45% công suất và như vậy tổng công suất cần
thiết trong ví dụ trên sẽ lên tới 145% x 350W = 507W. Đường điện 12V sẽ
phải đạt tối thiểu 18.84A x 145% = 27.3A.
Một khi đã tìm được một
bộ nguồn phù hợp cả về công suất lẫn đường +12V, chúng ta phải đảm bảo
kiến trúc đường điện +12V đáp ứng được các thiết bị cần thiết, ví dụ
riêng con chip Pentium 4 3,4 Extreme Edition đã cần tới 11A trên đường
12V. Nếu bạn dùng một bộ nguồn có 2 đường 12V – 14A thì khoảng an toàn
cần thiết để nghịch ngợm ép xung sẽ hạn hẹp hơn.
Bạn cũng có thể sử dụng một vài công cụ tính toán công suất trực tuyến để tìm ra con số cần thiết, ví dụ như:
http://www.mymp3car.com/MP3Car/PSUpower.asp
Thực tế thử nghiệm một hệ thống có cấu hình khá mạnh như sau:
Trích dẫn:
+ AMD Opteron DualCore 165 @ 2,9GHz.
+ DFI LanpartyUT nForce4 SLI-D.
+ nVIDIA GeForce 6800Ultra
+ 4×512 Corsair XMS PC3200C2.
+ 3x Maxtor Diamond Plus 9 120GB 7200rpm
+ DVD + DVD-RAM
+ Creative X-Fi Platinum
+ Card PCI Wifi
+
Đồ chơi: CoolerMaster Cooldrive6, Aerogate III, Aquamini/Hyper 6,
Musketeer II, đèn Cold Cathode, 2 quạt LED 120mm và 4 quạt LED 80mm.
+ Thiết bị USB: Logitech G5 Mouse, G15 Keyboard, Momo Racing Wheels, Dinovo Media Desktop, đầu đọc thẻ.
Kết
quả chỉ dừng ở mức 180W khi rỗi và gần 300W khi chơi những game tương
đối nặng như Halflife 2, Ages of Empire III hay Quake 4.
Lưu ý, một số nhà sản xuất đưa chỉ số không rõ ràng, chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề này qua hai ví dụ nhỏ sau.
- Bộ nguồn thứ nhất có chỉ số:
Output:
+3.3V rail = 30A
+5V rail = 40A
+12V rail = 34A
Continuous power = 510W max
Peak power = 650W max
Ta có thể tính ra công suất các đường điện như sau:
+3.3V: 100W
+5V: 200W
+12V: 408W
- Bộ nguồn thứ hai có chỉ số:
Output
+3.3V rail = 30A
+5V rail = 40A
+12V rail = 30A
Total power = 660W max
Measurements taken at 40F
Tính toán tương tự như trên, chúng ta có:
+3.3V: 100W
+ 5V: 200W
+12V: 360W
Mới
nhìn thoáng qua, thật khó có thể nhận ra điểm khác biệt giữa chúng.
Nhưng hãy chú ý thật kĩ: trên tem bộ nguồn thứ hai có ghi nhiệt độ thử
nghiệm của nhà sản xuất chỉ ở mức 40 độ F tức là chỉ khoảng âm 4 độ C.
Nhiệt độ hoạt động thông thường của bộ nguồn máy tính vào khoảng 38 độ C
tương đương 100 độ F, ở mức này trên lý thuyết bộ nguồn thứ hai chỉ có
thể cấp được dòng điện ổn định liên tục chưa tới 300W. Đặc biệt khi
nhiệt độ lên tới 70 độ C, bộ nguồn này thậm chí mất hẳn khả năng cung
cấp điện năng cho hệ thống. Thực tế chẳng mấy khi nhà sản xuất cho bạn
biết họ tiến hành thử nghiệm công suất nguồn ở nhiệt độ nào. Bộ nguồn
thuộc loại cao cấp luôn phải đảm bảo khả năng cung cấp đủ số watt trong
điều kiện nhiệt độ 40-50 độ C.
Vì thế, bạn nên xem xét cẩn thận
khi gặp một bộ nguồn công suất cao với giá quá rẻ. Chất lượng luôn tỉ lệ
thuận với giá thành, đó là lý do tại sao bạn nên chọn sản phẩm của
những nhà sản xuất uy tín. Luôn chú ý đọc các thông số thật cẩn thận và
đừng bỏ qua bất cứ chi tiết nào. Ví dụ, Antec có tới 3 chủng loại nguồn
480W khác nhau. Phiên bản TruePower có đường 12V lên tới 28A trong khi
TrueBlue chỉ có 22A mà thôi. Bạn nên tìm hiểu ý kiến từ bạn bè hay các
nguồn thông tin trực tuyến về những thông số của bộ nguồn mà mình định
mua cũng như đọc các bài giới thiệu sản phẩm trước khi đưa ra quyết
định.
Thành phần
+3.3V
+5.0V
+12.0V
Athlon64 3500+
-
-
7.4 A
Bo mạch chủ thông dụng
3.0 A
2.0 A
0.3 A
Đĩa cứng Maxtor DM9
-
0.9 A
0.7 A
Đĩa cứng Maxtor DM9
-
0.9 A
0.7 A
RAID SATA Controller
2.0 A
0.5 A
-
nVIDIA GeForce 6800GT
0.1 A
3.94 A
3.02 A
nVIDIA GeForce 6800GT
0.1 A
3.94 A
3.02 A
2x 512 DDR400-
-
3.25 A
-
Audigy 2 ZS
0.5 A
0.5 A
-
2x120mm quạt thông gió
-
-
0.6 A
Bàn phím + chuột USB
-
0.5 A
-
DVD-RW
-
1.2 A
1.6 A
DVD-ROM
-
1.5 A
1.5 A
Tổng số ampe mỗi đường
5.7 A
22.13 A
18.84 A
Tổng số watt
18.81 W
110.65 W
226.08 W
Công suất tổng
335.54 W
MỘT SỐ ĐẶC TÍNH CỦA CÁC LOẠI NGUỒN HÀNG HIỆU
Những
nhà sản xuất tên tuổi thường tung ra thị trường rất nhiều sản phẩm đa
dạng, phong phú về mẫu mã và tính năng. Hiện nay bạn có thể tìm thấy các
loại nguồn với những tính năng phụ khá hấp dẫn như sau:
Đồng hồ đo tải:
lọai bộ nguồn này sẽ thông báo cho người dùng biết tổng công suất hệ
thống đang sử dụng là bao nhiêu. Các mức chỉ số được theo dõi liên tục
trong chế độ thời gian thực, nhờ thế bạn có thể tiến hành nâng cấp khi
nhận thấy bộ nguồn liên tục bị quá tải.
Dây điện riêng cho quạt:
Một số nguồn điện có riêng dây Molex 4 chân với kí hiệu “Fan Only” để
người dùng gắn các loại quạt làm mát vào đó. Thông thường những nguồn
này cũng sẽ kèm theo chiết áp để chỉnh điện thế của dây Fan Only để thay
đổi tốc độ quay của quạt.
Dây điện được bọc dạng tròn:
Mỗi dây nguồn đều gồm nhiều sợi nhỏ nên sẽ khá vướng víu khi đưa vào
bên trong case máy tính, vấn đề được giải quyết bằng cách bó gọn chúng
trong ống lưới hay vỏ sợi kim loại chống nhiễu. Độc đáo hơn, một số dây
nguồn còn có lớp bảo vệ UV, phát sáng khi bị tia cực tím chiếu vào.
Lưới thoát nhiệt hình tổ ong:
Với những bộ nguồn thoát nhiệt bằng quạt gió thông dụng, dạng lưới tổ
ong sẽ cho phép luồng không khí đi qua dễ dàng, tăng mức giảm nhiệt,
tăng công suất và tuổi thọ của thiết bị. Bạn cũng sẽ gặp các sản phẩm
với lưới dạng tròn hoặc dạng dải, tuy nhiên hiệu năng kém hơn.
Fanless Design – SuperQuiet:
Những nguồn với chứng nhận dạng này thường tập trung xử lý vấn đề tiếng
ồn nhờ lớp vỏ nhôm. Bên trong là các khối tản nhiệt đồng cực lớn kèm
theo hệ thống ống dẫn nhiệt heatpipe đồ sộ. Nhờ khả năng truyền tải
nhiệt hiệu quả của các heatpipe (Xem thêm “Tản nhiệt kim loại – Lý
thuyết và thực tế”, ID: A0603_124) kèm theo những lá đồng nên các bộ
nguồn loại này không cần tới quạt làm mát và tuyệt đối không phát sinh
âm thanh nào trong khi hoạt động. Một số thử nghiệm của diễn đàn
XtremeVN (http://www.xtremevn.com) trong điều kiện môi trường Việt Nam cho thấy
nhiệt độ nguồn vẫn khá ổn định ở mức dưới 50 độ C khi hoạt động “hết
mình”.
Modular Concept: Như đã đề cập ở trên, những bộ
nguồn được thiết kế kiểu này cho phép tháo rời các dây cắm và chỉ sử
dụng những sợi nào cần thiết để tiết kiệm diện tích vốn khá chật hẹp bên
trong case.
Hình ảnh Hình ảnh
Tích hợp UPS:
Một số bộ nguồn có tích hợp thành phần lưu điện UPS sẵn để hỗ trợ người
dùng trong các tình huống mất điện bất chợt. Ưu điểm của các sản phẩm
dạng này là bạn sẽ không cần phải mua thêm bộ lưu điện bên ngoài tuy
nhiên khi ắc quy bị chai hoặc trục trặc sẽ rất khó thay thế.
Khe điện phía sau:
Việc đưa cổng molex ra phía sau của nguồn sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn
bạn tưởng. Những loại đèn trang trí, các ổ đĩa cứng gắn ngoài qua giao
tiếp e-SATA thường thấy trên các BMC đời mới sẽ thực sự được hưởng lợi
từ kiểu thiết kế này.
Bộ nguồn đôi: Một số bộ nguồn
hoặc case máy tính cao cấp thường tặng kèm người dùng một cáp chuyển cho
phép cắm 2 bộ nguồn cùng nuôi máy tính để tăng công suất. Thiết kế này
đòi hỏi bạn phải tự bố trí thêm khoảng trống cho bộ nguồn thứ hai.
Hình ảnh
Bộ nguồn có chất lượng tốt
Hình ảnh
Bộ nguồn kém chất lượng
KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG DÒNG ĐIỆN

nhiều cách thức để kiểm tra dòng điện mà bộ nguồn cung cấp cho máy tính
của bạn. Bộ nguồn tốt phải cung cấp được dòng điện “sạch” cho các linh
kiện. Có nhiều người cho rằng các đường điện càng cao sẽ càng tốt nhưng
thực tế điều này không đúng. Vấn đề ổn định dòng điện phải được đặt lên
hàng đầu. Thao tác căn chỉnh các đường điện lên thật cao để khi hệ thống
tải nặng chúng tụt xuống mức vừa đúng là chuyện lợi bất cập hại. Để
theo dõi đường điện của bộ nguồn mới mua, bạn có thể sử dụng một số phần
mềm chuyên dụng như Speedfan (http://www.almico.com) với chức năng lập biểu đồ
theo thời gian.
Tất nhiên, giá trị cụ thể của các dòng điện do
chương trình đưa ra chỉ mang tính tham khảo. Để có con số chính xác, bạn
nên sử dụng các thiết bị đo chuyên dụng.
Có thể sau khi đọc bài
viết này, bạn sẽ tò mò kiểm tra lại bộ nguồn mà mình đang sử dụng và
giật mình khi thấy những nhược điểm của nó hoặc hài lòng vì mình đã có
lựa chọn sáng suốt. Nhìn chung, trong lần ráp máy tính tiếp theo, hãy
dành cho bộ nguồn một sự quan tâm xứng đáng. Nếu bạn dự kiến chi hơn
1000 USD cho máy tính của mình, nên dành 10% cho bộ nguồn. Chọn lựa đúng
bộ nguồn sẽ đem lại sự ổn định và tuổi thọ lâu dài cho toàn hệ thống.
Chuẩn ATX 1.3 và 2.x
Hiện có 2 chuẩn ATX phổ biến là chuẩn 1.3 và chuẩn 2.x.

ATXV1.3 chỉ có 1 đường (rail) 12V và có thể có hoặc không có đầu cấp
nguồn SATA, thường thì các bộ nguồn chuẩn ATX V1.3 có hiệu suất thấp –
chỉ đạt khoảng 60 % – và có đường điện chính là đường 5V (thích hợp cho
những BMC cấp nguồn 5V cho CPU như BIOSTAR M7NCG và một số BMC AMD
khác).
Các bộ nguồn ATX 2.x có đường điện chính là đường 12V, đều có
trang bị đầu cấp nguồn SATA, PCie (VGA) bên cạnh những đầu cấp nguồn
HDD, FDD thông thường. Hiệu suất của bộ nguồn ATX 2.x thường đạt
trên70%. Xu hướng chuẩn ATX 2.x đang dần thay thế chuẩn ATX 1.3.
Chuẩn ATX
V 2.x
V 1.3
3.3 V
32 A
35 A
5 V
40 A
50 A
12 V 1
18 A
30 A
12 V 2
18 A
-
Tổng công suất
550 W
550 W
Khác biệt giữa các chuẩn ATX
V 2.2 / V 2.1
V 2.01 / V 2.0
V 1.3
Đầu cấp nguồn
24 pin
24 pin
20 pin
Số đường 12 v
2
2
1
Đầu cấp nguồn SATA
-
Hiệu suất thấp nhất
72 %
70 %
60 %
Đường điện chính
12V
12V
5V

Dùng các lệnh của Windows để kiểm tra (sự toàn vẹn của) hệ thống khi (nghi ngờ) hệ thống bị tấn công

Mỗi người dùng máy tính đều phải đối mặt với vấn đề những máy chạy Windows bị tấn công. Và trong một số môi trường, thì điều này xảy ra rất thường.

May thay, Microsoft đã xây dựng một loạt các công cụ trong Windows để các nhà quản trị cũng như người dùng có kinh nghiệm có thể phân tích chiếc máy tính của mình xem liệu nó có đang bị xâm phạm hay không. Trong hướng dẫn thủ thuật này- bao gồm 2 phần, tác giả bài viết sẽ giới thiệu năm công cụ dòng lệnh hữu ích được tích hợp (build-in) trong Windows cho mục đích này.
1) WMIC: Một thế giới mạo hiểm đang chờ 

Nó đưa ra một giao diện dòng lệnh cho Windows Management Instrumentation API cực mạnh mẽ bên trong Windows. WMIC cho phép người dùng quản trị truy cập tất cả các loại thông tin chi tiết về máy tính chạy Windows, bao gồm chi tiết các thuộc tính của hàng ngàn thiết lập và đối tượng. WMIC được tích hợp trong Windows XP Professional, Windows 2003 and Windows Vista. Để sử dụng WMIC, người dùng cần kích hoạt nó bằng cách chạy lệnh WMIC với tham số là lĩnh vực của máy mà người dùng quan tâm tìm hiểu ( thường được tham chiếu như một tên tắt trong hệ thống) Ví dụ, để biết về các tiến trình đang chạy trên máy, người dùng có thể chạy:

C:\> wmic process 

Đầu ra của lệnh này có vẻ sẽ rất kinh khủng vì format đầu ra đã không được chỉ ra. Với WMIC, đầu ra có thể được định dạng theo vài cách, tuy nhiên 2 trong số những định dạng hữu dụng nhất cho việc phân tích khả năng hệ thống bị tấn công là lựa chọn “list full” , chỉ ra một lượng lớn các chi tiết cho mỗi lĩnh vực của máy tính mà người dùng quan tâm và lựa chọn “list brief” , cung cấp một hàng tin cho một mục báo cáo trong danh sách các thực thể, chẳng hạn như các tiến trình đang chạy, các phần mềm tự khởi động và các chia sẽ đang có.
Ví dụ, chúng ta có thể coi một tổng kết các tiến trình đang chạy trên máy bằng cách gõ vào:

C:\> wmic process list brief 

Lệnh này sẽ chỉ ra tên, ID của tiến trình và độ ưu tiên của mỗi tiến trình đang chạy, cũng như các thuộc tính khác ít quan trọng hơn. Để có thông tin chi tiết hơn, ta nhập lệnh:

C:\> wmic process list full 

Lệnh này xuất ra toàn bộ các chi tiết , gồm đường dẫn đầy đủ của mã thực thi liên quan tới các tiến trình và tham số của chúng. Khi điều tra để tìm sự lây nhiễm của máy tính, người quản trị cần xem xét từng tiến trình để xác định xem liệu chúng có sử dụng máy một cách hợp pháp, tìm kiếm các tiến trình không được mong chờ và không được biết đến bằng cách áp dụng các cổ máy tìm kiếm.
Ngoài các tên tắt của các tiến trình, người dùng có thể xem xét quá trình khởi động để có được danh sách các phần mềm tự khởi động , bao gồm các phần mềm được khởi động trong quá trình hệ thống boot up, được xác định bởi các khóa hay thư mục auto-start registry.

C:\> wmic process list full 

Phần lớn các malware tự chạy trên máy bằng cách thêm một dòng tự khởi động cùng với các phần mềm hợp lệ khác, có thể thuộc các công cụ antivirus và các chương trình khác trên khay hệ thống. Người dùng có thể xem các thiết lập khác trên máy với dòng lệnh WMIC bằng cách thay thế “startup” bởi “QFE” (viết tắt của “Kỹ Thuật Sửa chữa Nhanh” - Quick Fix Engineering) để thấy được mức độ được Vá (Patch) của hệ thống, với tùy chọn “share” để xem danh sách các tệp chia sẻ có trên máy và với “useraccount” để xem chi tiết vể thiết lập tài khoản người dùng.
Một sự lựa chọn rất tiện dụng của WMIC là khả năng chạy lệnh thu thập thông tin trên cơ sở lặp lại bằng cách sử dụng cú pháp “ /every:[N]” ở cuối cùng của dòng lệnh WMIC. [N] ở đây là số nguyên, chỉ ra rằng WMIC sẽ phải thực thi lệnh được chỉ định cứ mỗi [N] giây. Bằng cách này, người dùng có thể thấy sự thay đổi trong các thiết lập của hệ thống theo thời gian, cho phép kiểm soát kỹ lưỡng đầu ra. Để sử dụng chức năng này nhằm đánh giá các process cứ sau 5 giây, người dùng cần chạy dòng lệnh:

C:\> wmic process list brief /every:5 

Nhấn tổ hợp CTRL+C sẽ ngưng chu trình này.

2) Lệnh net: cũ nhưng tốt

Trong khi WMIC là lệnh tương đối mới , chúng ta cũng không quên một số lệnh cũ hữu ích. Một trong những lệnh rất được ưa chuộng là “net”. Người quản trị có thể dùng lệnh này để hiển thị toàn bộ các kiểu thông tin hữu ích.
Ví dụ, lệnh “net user” chỉ ra toàn bộ các tài khoản người dùng được xác định trên máy. Lệnh "net localgroup" sẽ chỉ ra các nhóm (groups), lệnh "net localgroup administrators" sẽ chỉ ra các thành viên quản trị của Nhóm và lệnh “net start” cho ta xem các dịch vụ đang chạy.
Những kẻ tấn công thường thêm users vào hệ thống hoặc chèn tài khoản riêng của chúng vào Nhóm Quản trị (administrators groups) , vậy nên việc kiểm tra đầu ra của dòng lệnh này là ý tưởng hay để xem kẻ tấn công có can thiệp vào các tài khoản người dùng trên máy không. Những kẻ tấn công cũng có thể tạo các dịch vụ độc hại trên máy, vậy nên người dùng cũng cần kiểm soát được khả năng này.

3)Openfiles: Cái nhìn sâu xa

Có nhiều quản trị Windows không biết sức mạnh của lệnh openfiles có trong Windows. Như tên gọi của mình, lệnh này đưa ra toàn bộ những files đang được mở, chỉ ra tên những process đang tương tác với mỗi file. Lệnh này được xây dựng trong các phiên bản Windows mới , từ XP Pro tới Vista. Tương tự như lệnh lsof rất phổ biến trong Linux và Unix, nó sẽ đưa ra toàn bộ các tệp đang mở trên máy, chỉ ra tên các process và đường dẫn đầy đủ tới mổi file. Tuy nhiên điểm khác với lệnh lsof là nó không cung cấp nhiều chi tiết hơn, như số hiệu process ID, số hiệu người dùng ( user number) và những thông tin khác.
Xét trên số lượng thông tin mà lệnh này thu thập, có thể thấy lệnh openfiles là một gánh nặng năng suất. Bởi thế nên tài khoản liên quan với openfiles bị tắt theo mặc định, nghĩa là người dùng không thể lôi được bất kỳ thông tin gì từ lệnh này cho tới khi nó được mở. Chức năng này có thể được kích hoạt bằng cách sau:

C:\> openfiles /local on 

Người dùng sẽ cần phải khởi động lại máy, khi có lại hệ thống, ta có thể chạy lệnh openfiles như sau:

C:\> openfiles /query /v 

Lệnh này sẽ trưng ra một đầu ra dài dòng, bao gồm tài khoản người dùng mà mỗi tiến trình (process) cùng với file đang mở mà nó chạy ở dưới. Để có thể hình dung malware đã được cài đặt như thế nào, hoặc giả kẻ tấn công có thể làm gì trên hệ thống, người dùng cần tìm những file không bình thường hoặc không mong đợi, đặc biệt những file có liên quan với những người dùng bất thường trên máy.
Khi lệnh openfiles kết thúc, chức năng tài khoản của nó sẽ được tự tắt và hệ thống sẽ trở lại năng xuất bình thường bằng cách chạy lệnh tiếp theo và khởi động lại.

C:\> openfiles /local off 

4) Netstat: Cho tôi xem hệ thống mạng 

Bởi malware thường giao tiếp thông qua mạng, nên người dùng có thể tìm các kết nối không bình thường và không được mong chờ trên đầu ra của netstat, chạy như sau:

C:\> netstat -nao 

Tham số tùy chọn –n chỉ cho netstat hiển thị số của máy tính, thay vì hiển thị tên máy và giao thức, và thay vì chỉ ra địa chỉ IP và số hiệu cổng TCP hoặc UDP. Tùy chọn –a để hiển thị toàn bộ các kết nối và các ports đang lắng nghe. Tùy chọn –o khi ta cần netsat hiển thị số hiệu processID của mỗi chương trình đang giao tiếp với cổng TCP hay UDP. Nếu như, thay vì TCP và UDP, bạn quan tâm ICMP, thì hãy chạy netstat như sau:

C:\> netstat –s –p icmp

Dòng lệnh sẽ trả về thống kê (-s) của giao thức ICMP Tuy không được chi tiết như đầu ra của TCP và UDP, người dùng có thể thấy liệu máy có đang gửi ICMP traffic thông thường hay bất thường lên mạng. Một số backdoors và malware giao tiếp bằng cách sử dụng tải trọng của các thông điệp ICMP Echo, tương tự như những gói ping thông thường vẫn thấy trên phần lớn các hệ thống mạng.
Giống như WMIC, netstat cũng cho phép ta chạy nó cứ mỗi N giây. Tuy nhiên, thay vì sử dụng syntax của WMIC là "/every:[N]", ta chỉ cần thêm vào cuối cùng của dòng lệnh netstat dấu cách và một số nguyên. Như vậy để list ra các cổng TCP và UDP đang mở trên máy cứ mỗi 2 giây, ta nhập lệnh:

C:\> netstat –na 2 

5) Find: Tìmcác thứ hay ho ở đầu ra (kết xuất)

Phần lớn các lệnh thảo luận ở đây cho tới giờ đều cho ra rất nhiều thông tin đầu ra, có thể khó cho ta khi cần xem và tìm thứ mình quan tâm.Tuy nhiên, Windows sẽ giúp ta. Người dùng có thể tìm trên đầu ra của lệnh bằng cách sử dụng các lệnh bên trong Windows là find và findstr. Lệnh find sẽ tìm trên một chuỗi đơn, trong khi findstr hỗ trợ tìm các regular expressions, một cách thức phức tạp hơn để chỉ ra các mẫu tìm kiếm. Do vì regular expressions được hỗ trợ bởi findstr nằm ngoài khuôn khổ bài này nên ta sẽ chỉ tập trung vào lệnh find. Mặc định, find là lệnh có phân biệt chữ in hoa và thường – ta dùng tùy chọn /i để làm cho nó không phân biệt chữ thường hay hoa nữa. 

Lệnh find cũng có khả năng đếm. Khi lệnh được kích hoạt với /c , nó sẽ đếm số hàng của đầu ra mà chuỗi cho trước có. Người dùng thường muốn đếm số lượng các hàng có trong đầu ra của lệnh để xác định có bao nhiêu tiến trình đang chạy, có bao nhiêu chương trình được khởi động từ đầu, hoặc vài thứ hay khác trên máy. Để đếm số hàng của đầu ra, ta chỉ cần pipe đầu ra của nó thông qua find /c /v”” Lệnh này sẽ đếm số lượng (/c) hàng không có hàng trống (blank line) (“”) trong nó. Bằng cách đếm số lượng các hàng không trống, lệnh này thực chất là đã đếm số lượng hàng. 


Vậy là với lệnh find, ta có thể xét toàn bộ đầu ra của mỗi lệnh mà chúng ta đã xét ở trên để có thể tìm ra gì đó hay ho. Ví dụ, để xem thông tin về tiến trình lệnh cmd.exe cứ sau mỗi giây trên máy, ta đánh:

C:\> wmic process list brief /every:1 | find "cmd.exe" 

Hoặc, để xem xem chương trình tự khởi động nào liên quan registry hive HKLM, ta chạy:

C:\> wmic startup list brief | find /i "hklm" 

Để đếm số các tệp đang mở trên máy mà tài khoản lệnh openfiles đang được kích hoạt, ta đánh:

C:\> openfiles /query /v | find /c /v ""

Cứ khi nào đếm các mục theo kiểu này, ta nhớ trừ đi số hàng liên quan với đầu cột (column headers).
Và với ví dụ cuối cùng, ta sẽ cùng xem với độ chính xác 1 giây khi nào trạng thái cổng TCP 2222 bắt đầu được sử dụng trên máy, cùng với processID sử dụng cổng. Ta chạy:

C:\> netstat –nao 1 | find "2222" 

Nghiên cứu đầu ra:

Với 5 công cụ này, người dùng có thể thu được lượng lớn thông tin về cấu hình và tình trạng an toàn của máy chạy Windows. Để sử dụng từng lệnh trong việc phát hiện sự xâm phạm thì người dùng tuy nhiên sẽ phải so sánh các thiết lập hiện thời của máy dưới sự phân tích là trạng thái “bình thường”, của máy không bị nhiễm bệnh. 

Có ba lựa chọn để thiết lập ranh giới so sánh căn bản. Thứ nhất, nếu người dùng là người có kinh nghiệm săn lùng malware, anh hay cô ta sẽ có linh cảm với những gì là đúng hay sai đối với mỗi kiểu máy, và sẽ phát hiện malware hay chỉ là sự cố bất thường dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Một cách khác, so sánh kết quả thực hiện lệnh có thể được thực hiện đối với một máy sạch, không bị nhiễm nếu ta sẵn có. 

Còn nếu không có, người dùng có thể phải viện đến lựa chọn thứ ba – nghiên cứu các files, các tên process, các tên file đặc trưng và các số hiệu cổng được xác định bởi lệnh này và tìm kiếm thông tin về chúng trên Internet để xác định xem chúng có là bình thường đối với một hệ thống phần cứng và phần mềm được cài trên đó, hay là liệu chúng có liên quan với một loại malware nào đó.
Trong bài này, chúng ta đã xem xét năm lệnh bên trong rất mạnh mẽ của Windows. Ở bài tới, cúng ta sẽ xét nốt cho đủ 10 danh mục bằng cách xem xét các tính năng ít được biết đến nhưng hết sức hữu ích của các lệnh tasklist, reg và ipconfig , và không kém thú vị là vòng lặp FOR cũng như việc chạy giao diện quản trị GUIs thông qua dòng lệnh.

Về tác giả: 
Ed Skoudis là một giảng viên của tổ chức SANS và là nhà sáng lập, tư vấn cao cấp về an toàn thông tin của Intelguardians, một công ty về An toàn thông tin có trụ sở ở DC. Chuyên môn sâu của ông bao gồm các phương thức tấn công của hacker và cách phòng vệ, các vấn đề về ngành an toàn thông tin và computer privacy. Ông giành được các giải thưởng 2004,2005 và 2006 của Microsoft MVP về an ninh Windows Server.

Biên dịch: minhta - misoft

Thứ Sáu

Thiết lập excel 2003 mở mặc định khi cài chung với excel 2007


Mặc định khi cài song song office 2003 với office 2007 thì khi bạn mở file bất kỳ nào bằng cách click đúp, excel 2007 sẽ được gọi để mở file đó.
Bạn đăng ký excel 2003 sẽ là chương trình mở mặc định của định dạng xls này.

Bạn vào Start -> Run rồi thực hiện lệnh:

"c:\Program Files\Microsoft Office\Office12\EXCEL.EXE" /unregserver

Lệnh này sẽ ngừng việc đăng ký excel 2007 mở mặc định

"c:\Program Files\Microsoft Office\Office11\EXCEL.EXE" /regserver

Lệnh này sẽ đăng ký excel 2003 sẽ mở mặc định khi bạn click đúp vào tập tin xls.


Thứ Ba

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates